Website về bệnh gan
Website of Hepatology

PGS.TS.BS. Phạm Thị Thu Thủy
Assoc.Prof. Pham Thi Thu Thuy, MD,PhD

HỘI NGHỊ GAN MẬT CHÂU ÂU 07-10/05/2025 - Amsterdam – The Netherland

30/05/2025 07:45:04 am

Hội nghị tập trung 7742 các bác sĩ từ 119 nước tham dự.

Hội nghị đưa ra nhiều tiến bộ về chẩn đoán, phương páp điều trị mới và tiên lượng bệnh. MASLD được nhắc đến nhiều trong hội nghị, phương pháp điều trị mới cho MASLD, vai trò ngày càng tăng của hệ vi sinh vật đường ruột đối với bệnh gan và các chiến lược mới nổi trong quản lý sau ghép tạng. Các cuộc thảo luận chính cũng đề cập đến việc quản lý rối loạn sử dụng rượu trong bệnh gan, các phương pháp điều trị mới trong các bệnh ứ mật qua trung gian miễn dịch và những phát triển gần đây trong chăm sóc bệnh viêm gan B và D. Hội nghị  đã nhấn mạnh những tiến bộ quan trọng, bao gồm kết quả từ thử nghiệm CALIBER trong bệnh xơ gan, một xét nghiệm chuyển hóa mới để phát hiện sớm PSC và ung thư đường mật, cải thiện tình trạng xơ hóa trong MASH và những đổi mới trong liệu pháp điều trị viêm gan B mãn tính.

 

I. Viêm gan virus:

1. Hướng dẫn điều trị viêm gan B mới của EASL được đưa ra, khuynh hướng mở rộng điều trị.

2. 30% nhiễm HBV không hoạt động có thể điều trị Peg-IFN Alpha 2b thời gian 48 tuần.

3. Những thuốc điều trị viêm gan B mới đang nghiên cứu có nhiều triển vọng: Tobevibrat (VIR-3434) ± PegIFN 2a, Elebsiran ±PegIFN 2a

* Entry Inhibitor Hepalatide +PegIFN 2a sẽ điều trị sạch cccDNA

4. Viêm gan D: Bulevirtide

5. Viêm gan E: mới thử nghiệm ở chuột : NITD008

6. Điều trị viêm gan C có SVR sẽ giảm đáng kể nguy cơ xơ gan và ung thư gan.

 

II. Viêm gan mỡ và nhiễm độc gan

1. Chẩn đoán MASLD bằng phương pháp chẩn đoán hình ảnh và marker sinh hóa. Thuốc điều trị được công nhận: Resmetirom

2. Bệnh nhân nghiện rượu có nguy cơ viêm gan mỡ , thuốc corticoid không hiệu quả trong việc ngăn chặn diễn tiến bệnh.

3. Thuốc đang nghiên cứu: HSD17B13, Efruxifermin, Amino acid có thể bảo vệ chống lại MASLD, NITs+CPF

III. U gan:

Nên có kế hoạch tầm soát và phát hiện HCC sớm

1. Việc giám sát có thể sử dụng đối với những người có tiền sử viêm gan B mạn tính đã mất HBsAg nhưng nguy cơ mắc ung thư biểu mô tế bào gan có thể vẫn ở trên ngưỡng giám sát (> 0,2% mỗi năm), đặc biệt nếu họ lớn tuổi hơn (> 50 tuổi) khi mất HBsAg, bị xơ gan hoặc có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư biểu mô tế bào gan.

Đối với nhiễm HBV tiềm ẩn, không khuyến cáo giám sát thường quy trừ khi các yếu tố nguy cơ bổ sung làm tăng nguy cơ ung thư biểu mô tế bào gan hàng năm lên ≥0,2%.

Hình ảnh ban đầu: Siêu âm bụng được thực hiện 6 tháng một lần bởi bác sĩ có kinh nghiệm.

Hình ảnh kỹ thuật cao hơn: Nếu siêu âm không đủ (ví dụ do béo phì, đầy hơi, biến dạng thành ngực), có thể sử dụng CT hoặc MRI tăng cường độ tương phản. Nhìn chung, những phương pháp này không mang lại hiệu quả về mặt chi phí cho việc giám sát thường quy nhưng rất hữu ích khi hạn chế về siêu âm.

Dấu ấn sinh học: Dấu ấn sinh học khối u, chẳng hạn như alpha-fetoprotein (AFP), có thể được sử dụng cùng với chẩn đoán hình ảnh. Kết hợp siêu âm với AFP giúp cải thiện độ nhạy đối với HCC giai đoạn đầu. Các dấu ấn sinh học và mô hình mới hơn (ví dụ:  AFP-L3, DCP, GALAD Score , GAAD Score) ngày càng được sử dụng. GALAD và GAAD (GALAD không có AFP-L3) có hiệu quả tương đương ở các giai đoạn bệnh, nguyên nhân và chủng tộc.

Tính liên tục: Việc giám sát HCC nên tiếp tục ở những bệnh nhân có nguy cơ ngay cả khi họ đang được điều trị bằng thuốc kháng vi-rút hiệu quả hoặc đã mất HBsAg, vì nguy cơ chưa được loại bỏ hoàn toàn.

 

IV. Biến chứng xơ gan

Đợt cấp trên nền bệnh thận mạn  thường gặp ở bệnh nhân xơ gan ở bệnh viện, đặc biệt ở những người có tổn thương thận (AKI) trước đó, thường có cơ hội khỏi bệnh thấp hơn, đặc biệt nếu nhập viện vì nhiễm trùng. Vì vậy, điều bắt buộc là phải cung cấp điều trị kịp thời, đặc biệt là ở các nước có nguồn lực tốt để cải thiện kết quả của bệnh nhân.Điều trị NSBB khi chẩn đoán AKI có liên quan đến khả năng giải quyết AKI cao hơn và tỷ lệ tử vong trong 28 ngày thấp hơn ở bệnh nhân xơ gan và AKI. Tiếp tục điều trị bằng NSBB ở bệnh nhân xơ gan và AKI dường như không có hại ở những bệnh nhân này.Bệnh nhân bị xơ gan mất bù cấp tính, sau đó phát triển suy gan cấp trên nền mạn  được đặc trưng bởi sự hiện diện của một quần thể tế bào đơn nhân cổ điển với các đặc điểm của con đường chuyển hóa năng lượng bị suy yếu.Độ cứng lách không giảm ở tuần thứ 3 là một yếu tố dự báo không xâm lấn mạnh mẽ về nguy cơ tái xuất huyết và không đáp ứng với điều trị NSBB ở bệnh nhân chảy máu do vỡ tĩnh mạch thực quản. Đo độ đàn hồi của gan và lách là giải pháp không  xâm lấn, cho phép can thiệp kịp thời ở những bệnh nhân giãn tĩnh mạch thực quản có nguy cơ cao.