THÔNG TIN MỚI CỦA HỘI NGHỊ GAN MẬT HOA KỲ DIỄN RA TẠI BOSTON TỪ 1---5/11/2002

Bs. Phạm Thị Thu Thủy biên tập và dịch.

 

1.Thuốc mới điều trị viêm gan siêu vi C: BILN 2061


BILN 2061 là chất ức chế men protease serine của siêu vi C rất đặc hiệu và mạnh mẽ. Holger Hinrichsen và cộng sự đã điều trị 31 bênh nhân viêm gan siêu vi C typ 1 có xơ gan ít với BILN 2061 trong 2 ngày, chia thành 3 nhóm : nhóm dùng 25mg , 200mg , 500mg 2 lần /ngày , so sánh với nhóm chỉ dùng giả dược . Kết quả số lượng virus đã giảm hơn 1LOG 10 unit với tỉ lệ 7/9 ở nhóm dùng 25mg , 8/8 ở nhóm dùng 200mg , 8/8 ở nhóm dùng 500mg , ở nhóm dùng giả dược không có bệnh nhân nào giảm virus. Trong một nghiên cứu khác Yves và cộng sự đã điều trị 10 bệnh nhân type 1 và xơ gan tiến triển 200mg BILN 2 lần mỗi ngày ,lượng siêu vi giảm hơn 1LOG 10 unit . Những nghiên cứu này cho thấy BILN 2061 có hiệu quả chống lại HCV.

2.Ảnh hưởng của bệnh tâm thần , việc sử dụng heroin, nghiện rượu đối với việc hồi phục bệnh của người viêm gan C.

Diane Sylvestre và Barry Clements điều trị 66 bệnh nhân viêm gan C nghiện heroin bằng Interferon và Ribavirin .Không thấy có bệnh tâm thần , sự dùng heroin , rượu ảnh hưởng tỉ lệ đáp ứng điều trị. Tuy nhiên , không có bệnh nhân nào trong 7 bệnh nhân quen dùng heroin , cũng không có bệnh nhân nào trong 4 bệnh nhân có bệnh tâm thần có nghiện rượu hay không nghiện rượu khỏi được bệnh. Nhiều nghiên cứu phân tích cho thấy chỉ có bệnh tâm thần là yếu tố làm cho hiệu quả điều trị kém.Những nghiên cứu này cho thấy rằng vẫn điều trị khả quan cho những người nghiện heroin bị viêm gan C.

3.Chế độ điều trị liều thấp nhanh đối với viêm gan C mãn có xơ gan mất bù.


Những nghiên cứu hiện tại không xem xét việc điều trị viêm gan C có xơ gan mất bù.Gregory Everson và cộng sự đã điều tri bằng Interferon alfa 2b và Ribavirin theo chế độ liều thấp nhanh cho 102 bệnh nhân viêm gan C có xơ gan mất bù . Dữ kiện ban đầu cho 91 bệnh nhân cho thấy rằng tỉ lệ đáp ứng sau điều trị 38% ,tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn 22% .Tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn tương ứng với genotype không phải 1 được điều trị với liều chuẩn . Nghiên cứu này cho thấy rằng chế độ liều thấp có hiệu quả cho xơ gan mất bù.

4.Tái điều trị với Peginterferon (PegIFN) và Ribavirin(RVN).


Mitchell Shiffman đã báo cáo rằng trong thử nghiệm HALT-C 863 bệnh nhân viêm gan siêu vi C thất bại với điều trị IFN và RVN được tái điều trị với PegIFN và RVN thì có 212 bệnh nhân đã khỏi bệnh hoàn toàn. Sự giảm liều xảy ra 60% ,nhưng chỉ 5% là không thể theo đuổi điều trị đến cùng. Tỉ lệ thành công sau điều trị 53% ,nhưng tỉ lệ khỏi bệnh lâu dài chỉ 20%. Tỉ lệ khỏi bệnh lâu dài tăng lên ở bệnh nhân: 1/ Thất bại điều trị IFN đơn độc trườc đó so sánh IFN và RVN (34% vs 11%) 2/Không là người Mỹ gốc Phi (22%vs o%) 3/Genotype không phải 1(60% vs15%) 4/ Nhỏ hơn 50 tuổi (25% vs 13%) 5/ Virus C giảm hơn 2 log vào tuần thư 12 (41% vs 7%). Ðiều trị bằng Peg IFN đang được đánh giá.

5.Viêm gan siêu vi B mãn.


Gánh nặng của ngành y tế về nhiễm siêu vi B ngày càng tăng ở Mỹ. W. Ray .Kim và cộng sự ở dưỡng đường Mayo (Rochester ,MN) đã sử dụng 2 dữ kiện có tính cách quốc gia ( Ðề án chăm sóc sức khỏe và ghi nhận tử vong ) để nghiên cứu xem có phải do dòng ngưới di trú từ vùng dịch tễ siêu vi B đến Mỹ làm tăng gánh nặng sức khỏe do nhiễm siêu vi B ở Mỹ.Tỉ lệ tử vong ước tính theo tuổi đối với nhiễm siêu vi B tăng gấp 4 lần từ năm 1979 đến 1998. Ðiều này được thấy ở người không phải da trắng , không phải da đen .Từ năm 1989 đến năm 1998 tăng từ 4,9 lần bệnh gan do siêu vi B, tăng 3,8 lần ung thư gan , tăng 2,2 lần tử vong trong bệnh viện , tăng 2,2 lần phí tổn bệnh viện .Ðiều này cho thấy rằng tử vong và sự nằm viện liên quan siêu vi B tăng ở Mỹ và vì vậy cần có nỗ lực chăm sóc sức khỏe để ngăn ngừa và điều trị viêm gan siêu vi B.

6.Entecavir(ETV) điều trị cho VGSVB mãn thất bại với Lamivudine.


Ting-Tsung Chang và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu quốc tế 181 bệnh nhân viêm gan siêu vi B đã thất bại với điều trị LAM hơn 24 tuần hoặc có đột biến YMDD, những bệnh nhân này được điều trị ETV một trong ba liều : 0,1 ; 0,5 hay 1 mg mỗi ngày , hoặc tiếp tục LAM 100mg/ ngày . Sự giảm HBVDNA trung bình của 3 nhóm dùng ETV đều tốt hơn đáng kể so với nhóm dùng LAM. Không có bệnh nhân nào trong nhóm dùng ETV 1mg có hiện tượng tăng virus trong 48 tuần điều trị và không có đột biến trong 3 nhóm ETV. Nghiên cứu này chứng tỏ ETV điều trị hiệu quả cho bệnh nhân viêm gan siêu vi B kháng trị với LAM.

7.Xơ gan mật nguyên phát:(PBC)


a/ Xảy ra trong sinh đôi cùng trứng:

Carlo Selmi và cộng sự qua một nghiên cứu quốc tế đã xác định 8 cặp song sinh trong 1.400 gia đình có người PBC . Những cặp song sinh này đều là nũ , 6 trong 8 căp có PBC .Sự phù hợp cao đối với PBC cho thấy rằng yếu tố gen đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu về gen đối với người PBC .


b/Qui luật có thể có của Xenobiotics đối với việc sinh ra kháng thể antimitochondrial (AMA).


Patrick và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu chi tiết ở thỏ , thỏ được tạo miễn dịch với BSA-conjugated halogenated hydrocarbons . Trong vòng 4 tuần sau khi tạo miễn dịch, thỏ phát triển kháng thể đối với PDC-E 2 , BCOADC-E 2 và OGDC-E 2 . Hơn nữa những kháng thể này được tìm thấy để nhận ra protein mitochondrial của thỏ bằng dấu ấn miễn dịch .Dữ kiện này cung cấp bằng chứng đầu tiên AMA có thể được sinh ra do tiếp xúc xenobiotic , đưa đến nhìn nhận rằng PBC có thể sinh ra do tiếp xúc hóa chất.


c/Ondansetron làm giảm mệt mõi


Mệt mõi trong PBC liên quan đến việc thay đổi dẫn truyền thần kinh . Jeremy Theal và cộng sự đã thực hiện cuộc nghiên cứu mù đôi đa trung tâm . 56 bệnh nhân ngẫu nhiên hoặc cho dùng Ondansetron (receptor chọn lọc HT5-HT3) 4mg , 3lần/ngày hoặc placebo trong 4 tuần . Mệt mõi được đánh giá bằng thang điểm FFSS. Bệnh nhân được điều trị Ondansetron giảm mệt mõi rõ rệt so với nhóm placebo.Không có tác dụng phụ quan trọng nào được thấy , tác dụng phụ phổ biến nhất là nhức đầu và táo bón . Ðiều này cho thấy Ondansetron có hiệu quả trong điều trị mệt mõi do PBC.

8.Viêm gan mỡ không do rượu(NASH).


a/ Leptin là một dấu ấn của xơ gan:

Mức độ cao của leptin được thấy ở những người tiểu đường và béo phì và ở bệnh nhân xơ gan do siêu vi C hoặc do rượu . Laura Alba và cộng sự đã đo lượng leptin , gluco, insulin , c-peptide trong huyết thanh 88 bệnh nhân NAFLD khi đói . Nhiều phân tích cho thấy leptin> 19,7 ng/ml , gluco> 13,5 uU/ml , tuổi >45 , tiểu đường và tỉ lệ AST/ALT > 1 là yếu tố tiên đoán xơ gan tiến triển.


b/Ðiều trị bằng Rosiglitazone :

Brent Neuschwander -Tetri và cộng sự đã điều trị 30 bệnh nhân NASH bằng Rosiglitazone ( một PPARγ cải thiện sự nhạy cảm với insulin) 4mg , 2 lần /ngày trong 48 tuần . Sự nhạy cảm với insulin tăng với điều trị Rosiglitazone và khi sinh thiết gan sẽ thấy mô học cải thiện . Hơn nữa sẽ thấy cải thiện qua hình ảnh CT. Ðiều này cho thấy Rosiglitazone điều trị hiệu quả viêm gan mỡ.

9.Tổn thương gan do rượu.


Hiệu quả của Polyenylphosphatidylcholine(PPC) . PPC là hợp chất tinh khiết 95% của polyunsaturated phosphatidylcholine trích tinh từ đậu nành cho thấy ngăn ngừa tiến triển của xơ gan do rượu ở động vật linh trưởng .Charles Lieber và cộng sự đã nghiên cứu ngẫu nhiên 789 bệnh nhân bệnh nhân bệnh gan do rượu được điều trị PPC 1,5mg /ngày hoặc placebo trong 4-6 năm . Nhờ khuyên nhủ các bệnh nhân giảm uống rượu và như vậy chậm tiến triển của xơ gan., PPC có hiệu quả ít trong cộng đồng . Tuy nhiên nhóm bệnh nhân tiếp tục dùng rượu hơn 6 ly /ngày , điều trị PPC , tiến triển xơ gan được đánh giá bằng hệ thống tính điểm bán định lượng , sự thay đổi ALT, AST, bilirubin , sự xuất hịên ascites. Nghiên cứu này cho thấy rằng PPC làm giảm uống rượu , chậm tiến triển xơ gan , giảm biểu hiện của bệnh gan.

10.Suy gan


a.Ðiều trị bằng hệ thống tái tuần hoàn phân tử( MARS)


Christian Steiner và Steffen Mitzner (Ðại học Rostock) đã tường trình hiệu quả nâng đỡ gan ngoài cơ thể bằng MARS cho 202 bệnh nhân suy gan( suy gan cấp ,mãn ,sau phẫu thuật gan) . Bệnh nhân có giảm biến chứng não gan , tăng áp suất động mạch , cải thiện chỉ số sinh hóa . Bệnh nhân suy gan cấp , mãn được cứu sống 61% , sau phẫu thuật gan 56% . Ðiều này cho thấy MARS hiệu quả cho bệnh nhân suy gan.


b.Yếu tố tiên lượng cho bệnh não gan nặng(HE)


Javier Vaquero và cộng sự đã nghiên cứu 170 bệnh nhân suy gan , bệnh nhân não gan mức độ 1,2 có khả năng sống sót hơn bệnh nhân não gan mức độ 3,4. (69,7% vs 26,8%) . Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng AST ở nhóm không dùng acetaminophen và nhóm dùng aetaminophen có nhiễm trùng sớm là yếu tố quan trọng tiên đoán phát triển HE

11. Hemochromatosis di truyền (HH)


Liên hệ đồng hợp tử C282 Y : Lawrie và cộng sự đã phân tích biểu hiện HH của 371 người có liên quan đời thứ nhất hay đời thứ hai đồng hợp tử đối với bệnh nhân HH liên quan HFE . Tất cả đối tượng là người châu Âu , triệu chứng phổ biến là đau khớp 14,5% . Trong 183 bệnh nhân , 84 nam (43%) 44 nữ (25%) có mức độ dự trữ sắt độ 3 hay 4 trong sinh thiết gan .Viêm gan mãn 52 bệnh nhân (14%) và xơ gan 11 (3%) bệnh nhân .Ðiều này cho thấy rằng việc truy tìm người thân bệnh nhân HH có liên quan HFE là quan trọng.



Home Page | Tài liệu chuyên môn | Bạn cần biết | Thông tin hội nghị | Liên hệ

Copyright © 2005 Dr. Phạm Thị Thu Thủy - Khoa gan - Trung tâm Y khoa Tp. Hồ Chí Minh