THÔNG TIN MỚI VỀ GAN TẠI HỘI NGHỊ TIÊU HÓA HOA KỲ
17----22/ 05/2003 ORLANDO- FLORIDA-USA
1.Xơ gan mật nguyên phát (PBC)
Ðiều trị Ursodeoxycholic acid (UDCA) trước khi ghép gan(LT)
Fiona Gordon trình bày các ca ghép gan bệnh nhân PBC tại trung tâm ghép
gan bệnh viện trường Ðại học King từ tháng 2/1988 đến 7/2001. 63 bệnh
nhân đã điều trị UDCA trước khi LT và 105 bệnh nhân PBC không điều trị
UDCA trước khi LT. 34 bệnh nhân trong nhóm điều trị UDCA đã điều trị UDCA
trên 2 năm truớc khi ghép gan .Thời gian trung bình từ lúc chẩn đoán
PBC đến khi ghép gan đối với nhóm có điều trị UDCA là 8,9 +- 5,2 năm ,
nhóm không điều trị 5,8+- 4,4 năm. Lúc ghép gan nồng độ bilirubin ,
alkaline phosphatase , INR ở nhóm có điều trị UDCA thì thấp hơn nhóm
không điều trị. Không có sự khác biệt giữa 2 nhóm về thang điểm
Child-Pugh , chỉ số não gan , chảy máu tỉnh mạch thực quản. Ðiều này
cho thấy rằng UDCA cải thiện chỉ số sinh hóa , làm chậm thời gian ghép
gan cho bệnh nhân PBC.
2.Ung thư gan (HCC)
Hashem EI-Serag đưa ra dữ liệu từ chương trình SEER từ
năm 1975---1998.
Tỉ lệ bất ngờ xảy ra đối với tuổi trong HCC tăng từ 1,4/100.000 khoảng
năm 1975?1977 đến 3/100.000 khoảng năm 1996-1998.( tăng 114%) .Ða phân
tích cho thấy rằng HCC tăng gấp 2 lần từ năm 1975?1998. Sự tăng ảnh
hưởng hầu hết lứa tuổi , phái tính , chủng tộc . Tuy nhiên tăng đột
phá (110%) ở đàn ông da trắng từ 45?49 tuổi . Tác giả nghi ngờ rằng
sự tăng này là do nhiễm HCV lúc trẻ từ năm 1960---1970
3.Xơ gan
a/Béo phì là yếu tố nguy cơ đưa đến tử vong hay phải
nhập viện
George Lonnou đã sử dụng dữ kiện từ nghiên cứu đầu tiên của viện nghiên cứu dịch tễ, chăm sóc sức khỏe , dinh dưỡng quốc gia ( 11.465 người tuổi từ 25-74) không có bằng chứng của xơ gan trước khi bước vào nghiên cứu) kết luận rằng nếu chỉ số cơ thể(BMI) tăng có liên quan đến tử vong do xơ gan hoặc phải nhập viện. Những đối tượng tham gia nghiên cứu được phân loại dựa vào chỉ số BMI : cân nặng bình thường (BMI<25 , n=5.752), hơi béo (25<BMI<30, n=3774) , béo phì (BMI>=30 , n=1939).Tổng quát , tử vong hay phải nhập viện do xơ gan xảy ra 89 đối tượng trong 150.233 lượt người theo dõi hàng năm( 0,59/100) . Tử vong hay nhập viện liên quan xơ gan đặc biệt phổ biến ở người béo phì (0,81/100), hơi béo (0,71/100) cao so với người cân nặng bình thường (0,45/100). Mối liên quan của sự tăng BMI với tử vong hay nhập viện do xơ gan không tìm thấy ở nhóm người nghiện rượu. Ðiều này cho thấy rằng béo phì là yếu tố nguy cơ cho tử vong hay nhập viện do xơ gan ở nhóm người không uống rượu hay uống ít .
b/Bệnh não gan dưới lâm sàng (SHE)xấu hơn khi lái xe:
Horst Koch cuộc lái xe 22 dặm có kẹt xe của 48 bệnh nhân xơ gan (14 có SHE) và 49 người không xơ gan. Kết quả về tốc độ càng xấu ở bệnh nhân xơ gan có SHE so với bệnh nhân xơ gan không SHE hay nhười bình thường.Ðiều này cho thấy rằng cần phải test SHE đối với bệnh nhân xơ gan mới cho điều khiển xe gắn máy.
4. Ghép gan (LT)
a/Tỉ lệ tiểu đường (DM) sau ghép gan (LT).
Hugo Bonatti đã đánh giá tỉ lệ tiểu đường sau ghép gan ở 402 bệnh nhân trong số 467 bệnh nhân tại trung tâm .Tỉ lệ tiểu đường sau ghép gan là 39% bao gồm tiểu đường mới phát sinh 16%. Tỉ lệ tiểu đường sau ghép gan và tiểu đuờng mới phát sinh ở người ghép gan béo phì(MO) (BMI>35) là 70% và 23.3%. Ðiều này cho thấy rằng người nhận gan MO có nguy cơ tiểu đường sau ghép gan . Cần nghiên cứu thêm người cho gan MO có tăng nguy cơ tiểu đường sau ghép gan.
b/Bất thường về mô học ở người cho gan:
Tram Tran đã thực hiện sinh thiết gan 56 đối tượng là
ứng viên cho gan (LDLT). Tuổi trung bình 43 , BMI trung bình 25kg/m2. Test
sinh hóa bình thường , không ai uống rượu. Tuy nhiên chỉ 27% là mô học
gan bình thường . Bất thường mô học chủ yếu là gan thấm mỡ 30% ,
ngoài ra những bất thường khác không biết lý do . Ðiều này cho thấy
rằng cần phải chọn lựa người cho gan và nên dùng sinh thiết gan để
chọn lựa.
5.Peginterferon (PEG-IFN)và Ribavirin (RBV) trong điều trị viêm gan siêu vi C mãn
Những nghiên cứu mới đây cho thấy rằng giảm bạch cầu hay xảy ra khi điều trị PEG-IFN kết hợp RBV. Furqaan Ahmed nghiên cứu tác dụng phụ nguy hiểm liên quan nhiễm trùng (SAE) từ 4.243 bệnh nhân điều trị PEG-IFN và RBV trong thử nghiệm WIN-R cho thấy có mối liên quan do phối hợp điều trị làm giảm bạch cầu. Chỉ 30 bệnh nhân (0,7%) phát triển SAE . 1 bệnh nhân chết do viêm phổi . 27 bệnh nhân phải nhập viện . 24 bệnh nhân điều trị với kháng sinh , 7 bệnh nhân đòi hỏi can thiệp phẫu thuật. Ðiều này cho thấy rằng SAE thì hiếm xảy ra. Sự phối hợp điều trị gây ra giảm bạch cầu và tiêu chuẩn giảm liều chưa rõ ràng . Sự phối hợp này cũng gây thiếu máu. Nezam trong một nghiên cứu mù đôi cho thấy rằng bệnh có thể dùng epoetin alfa trong khi điều trị có thể cải thiện thiếu máu mà không cần giảm liều.
6.Bệnh gan thấm mỡ không do rượu (NAFLD)-Viêm gan mỡ
không do rượu(NASH)
NAFLD ở trẻ em: Ariel Feldstein tường trình quá trình lâm
sàng của 57 trẻ em NAFLD theo dõi 16 năm tại dưỡng đường Mayo ở
Rochester . Trong 20 bệnh nhân có sinh thiết gan , viêm hoại tử 95%,
viêm gan mỡ 75%, viêm xơ 60%, xơ gan 5%. 43 (75%) có triệu chứng đau bụng
(53%) mệt (26%) gan to(26%) đau cột sống (9%).Theo dõi 50% vẫn tồn tại
triệu chứng 75% chức năng gan bất thường .Theo dõi 3 bệnh nhân sinh
thiết gan thấy có diễn tiến xơ. Ðiều này cho thấy trẻ em NAFLD có
diễn tiến bệnh theo thời gian.
Sự lưu hành NASH có khác nhau về chủng tộc: Kristel Hunt đã căn cứ dữ
kiện từ Viện nghiên cứu dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe quốc gia
thứ III (NHANES III) đưa ra sự lưu hành NASH ở MỸ. Những đối tượng
nhiễm siêu vi B , C , độ bảo hòa trasferrin >45% , có tiền căn uống
rượu hơn 10 ngày /tháng được loại trừ khỏi nghiên cứu .Ðối tượng gọi
là NASH khi ALT > 38 U/L đối với nam , >32 U/L đối với nữ , với C-peptide
>2.5 mg/ml Hgb A 1 C >6.2 hay BMI >25 .NASH được tìm thấy 4,9% , trong đó 28%
là Tây Ban Nha. Trong nghiên cứu thứ nhì , Jeff Browning tìm ra 41 bệnh
nhân xơ gan do cryto hay do NASH tại bệnh viện Parkland Memorial từ năm
1990-2001. 68% bệnh nhân này có đặc điểm NASH (BMI>30 hay tiểu đường) .
28 bệnh nhân (68%) là Tây ban Nha chỉ có 3 người (7%) là Mỹ gốc Phi
mặc dù Mỹ gốc Phi chiếm hơn 40% , Tây ban Nha ít hơn 26% ở bệnh viện
Parkland. Trong 5 năm nghiên cứu tỉ lệ trung bình hàng năm xơ gan đối
với người Tây ban Nha 119,6/100.000 , người da trắng 23,5/100.000 , Mỹ
gốc Phi 8,4/100.000 . Ðiều này cho thấy rằng NASH và xơ gan do NASH khác
nhau giữa các chủng tộc.
7. UDCA điều trị NASH :
Keith Lindor thử nghiệm trên 168 bệnh nhân NASH điều trị UDCA 13-15mg/kg/ngày hoặc giả dược .Sự thay đổi về sinh hóa không khác nhau giữa hai nhóm. Trong 95 bệnh nhân được đánh giá không có sự khác nhau về mô học giữa hai nhóm trong ít nhất 2 năm theo dõi. Ðiều này cho thấy rằng UDCA không hiệu quả cho NASH.
8.Viêm gan siêu vi C
Lây từ mẹ sang con: SimoneFerrero nghiên cứu 182 phụ nữ mang thai nhiễm
siêu vi C từ năm 1990?2000 tại Genoa , Italy .Cộng đồng được đánh giá
gồm 170 bà mẹ và 188 em bé . Tỉ lệ lây truyền HCV là 2,7% .Tất cả
trẻ nhiễm HCV được sinh ra từ mẹ có HCV lúc sinh.Những người mẹ lây
cho con có nồng độ virus cao trong máu . Tỉ lệ lây truyền càng cao khi
mẹ đồng nhiễm HIV ( 5,4% ) so với mẹ không nhiễm HIV (2%) . Cân nặng
trẻ, tỉ lệ mỗ lấy thai , dùng thủ thuật khi sanh , tai biến sản khoa
không khác với nhóm mẹ không nhiễm HCV.Ðiều này cho thấy rằng lây
nhiễm HCV từ mẹ sang con hiếm , chỉ tăng khi nồng độ virus mẹ cao , khi
mẹ nhiễm HIV
Ảnh hưởng của viêm gan mỡ đối với đáp ứng virus sớm
.(EVR)
Heather Patton phân tích 160 bệnh nhân nhiễm HCV điều trị IFN hay PEG -IFN
và Ribavirin . EVR là 115 bệnh nhân (72%) Bệnh genotype non -1 có tỉ lệ
EVR cao hơn genotyp 1 gấp 7 lấn. Bệnh nhân viêm gan mỡ độ 0 có EVR cao
hơn độ 1-3( 71% vs 42%) . Stepwise phân tích tuổi , genotype , mức độ viêm
gan mỡ để dự đoán EVR . Ðiều này cho thấy rằng viêm gan mỡ có ảnh
hưởng điều trị viêm gan C.